LÀM THẾ NÀO ĐỂ VỢ HOẶC CHỒNG BÁN ĐẤT KHI MỘT NGƯỜI ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI?
LÀM THẾ NÀO ĐỂ VỢ HOẶC CHỒNG BÁN ĐẤT KHI MỘT NGƯỜI ĐANG Ở NƯỚC NGOÀI?
Để bán tài sản chung vợ chồng thì cần phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, nếu chỉ có một người ở trong nước, người kia đang ở nước ngoài thì cần phải làm thế nào?
Điều 29, Luật HNGĐ 2014 quy định:
Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
Do đó, vợ chồng có quyền ngang nhau khi muốn bán tài sản chung. Đặc biệt, theo khoản 2 Điều 35 Luật HNGĐ 2014, nếu tài sản chung là bất động sản (đất, nhà gắn liền với đất…) thì sự việc định đoạt (trong đó có việc bán đất) phải được vợ chồng lập thành văn bản.
Như vậy, khi muốn bán đất là tài sản chung của vợ chồng cho người khác, lúc công chứng hợp đồng mua bán cần phải có mặt cả hai vợ chồng để cùng ký vào hợp đồng mua bán. Trong trường hợp nếu một người ra nước ngoài, không thể có mặt được thì có thể thực hiện bằng một trong hai cách sau đây khi vợ hoặc chồng đang ở trong nước muốn bán đất:
Cách 1: Uỷ quyền cho vợ/chồng ở nhà được bán đất
Nếu chọn cách uỷ quyền thì vợ chồng có thể thực hiện ngay khi hai người còn ở Việt Nam hoặc kể cả khi người vợ đã sang nước ngoài, không thể về nước để ký hợp đồng bán đất.
Hợp đồng uỷ quyền là loại hợp đồng không bắt buộc cả hai người cùng có mặt tại một tổ chức hành nghề công chứng. Đồng nghĩa, nếu chồng ở Việt Nam và vợ ở nước ngoài, hai vợ chồng hoàn toàn có thể thực hiện uỷ quyền ở hai nơi (theo khoản 2 Điều 55 Luật Công chứng).
Về phía người ở nước ngoài
Do một trong hai vợ chồng đang ở nước ngoài nên theo quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật Công chứng, người ở nước ngoài có thể đến cơ quan đại diện ngoại giao hoặc lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài dể công chứng văn bản uỷ quyền.
Trong trường hợp này, người công chứng sẽ là viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao có bằng cử nhân Luật hoặc đã được bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng.
Về thủ tục thì cũng tương tự như thủ tục công chứng hợp đồng uỷ quyền như khi hai vợ chồng ở cùng một chỗ trong nước.
Về phía người ở trong nước
Sau khi người ở nước ngoài thực hiện thủ tục công chứng văn bản uỷ quyền và gửi về Việt Nam, người ở trong nước tiếp tục đến bất kỳ tổ chức hành nghề công chứng nào trên cả nước để công chứng tiếp văn bản uỷ quyền này.
Thủ tục công chứng văn bản uỷ quyền cũng tương tự như trên. Tuy nhiên, việc công chứng uỷ quyền sẽ được Công chứng viên công chứng tiếp vào văn bản uỷ quyền được gửi từ nước ngoài về.
Sau khi có được văn bản uỷ quyền của người ở nước ngoài, người ở trong nước tiếp tục thực hiện việc bán đất theo thủ tục công chứng bán đất thông qua uỷ quyền.
Cách 2: Phân chia tài sản chung vợ chồng là nhà, đất
Ngoài cách uỷ quyền thì để chồng được toàn quyền bán đất mà không cần có ý kiến của vợ chồng thì trước khi vợ đi nước ngoài, hai vợ chồng có thể thực hiện phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.
Theo đó, căn cứ khoản 1 Điều 38 Luật Hôn nhân và Gia đình, vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể thoả thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung trừ trường hợp nhằm trốn tránh nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại… hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của gia đình, con chưa thành niên…
Do đó, nếu một trong hai bên phải ra nước ngoài, không có điều kiện về nước thì có thể chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và phân cho người chồng được toàn quyền định đoạt phần tài sản dự định sẽ bán.
Khi đó, nhà, đất này sẽ trở thành tài sản riêng của người chồng (căn cứ khoản 1 Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình). Và nếu muốn bán cho người khác sẽ không cần có ý kiến của người đang ở nước ngoài theo quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật Hôn nhân và Gia đình.
Tuy nhiên, thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân phải được lập thành văn bản và có thể thực hiện thủ tục công chứng tại văn phòng công chứng/phòng công chứng.
Giám đốc - Tiến sĩ - Luật sư Nguyễn Trọng Hải
Số 65, đường Lý Tự Trọng, phường Hà Huy Tập Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
vplstronghai.nghean@gmail.com
0913 766 976